Vài nét về Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
Quá trình thành lập:
APEC ra đời dựa trên sáng kiến của Australia, nước chủ nhà tổ chức cuộc họp cấp Bộ trưởng Ngoại giao và Thương mại đầu tiên với sự tham gia của 12 nền kinh tế trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Brunei Darussalam, Canada, Indonesia, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Malaysia, Nhật Bản, New Zealand, Philippines, Thái Lan, Australia và Singapore). Đây là các nền kinh tế thành viên sáng lập APEC.
Năm 1993, Hoa Kỳ tổ chức cuộc họp thường niên đầu tiên giữa các Nhà Lãnh đạo APEC tại Đảo Blake, Seattle nhằm đạt được cam kết ở cấp cao hơn.
Từ khi thành lập năm 1989 tới cuộc họp thường niên đầu tiên của các nhà Lãnh đạo, APEC đã kết nạp thêm được 6 thành viên (Trung Quốc, Hong Kong của Trung Quốc, Đài Bắc thuộc Trung Quốc, Mexico, Papua New Guinea và Chile); Peru, Liên bang Nga và Việt Nam là những nền kinh tế sau cùng tham gia vào APEC (năm 1998) đưa tổng số thành viên hiện nay lên 21.
Mục tiêu của APEC:
APEC được thành lập nhằm phát huy lợi thế của sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế trong khu vực. Mục tiêu quan trọng nhất của APEC là giúp toàn khu vực thịnh vượng hơn nữa.
Để thực hiện mục tiêu trên, các hoạt động của APEC dựa trên “ba trụ cột” chính sau:
-
Tự do hóa Thương mại và Đầu tư
-
Thuận lợi hóa Kinh doanh
-
Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật
Tầm quan trọng:
Kể từ khi thành lập tới nay, APEC đã phát triển thành một trong những tổ chức khu vực quan trọng nhất và lớn nhất thế giới. 21 nền kinh tế thành viên trải rộng trên bốn châu lục với hơn 2,6 tỷ dân, chiếm 41% dân số thế giới; chiếm 56% GDP thế giới (23 nghìn tỷ USD) và chiếm 47% thương mại toàn cầu (8 nghìn tỷ USD).
APEC là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, tạo ra gần 70% tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong 10 năm đầu tiên kể từ khi thành lập.
Cơ cấu Tổ chức:
Chức vụ Chủ tịch APEC được thay đổi mỗi năm theo nguyên tắc luân phiên giữa các nền kinh tế thành viên. Chủ tịch APEC thường là nước chủ nhà tổ chức các cuộc họp bộ trưởng và các nhà lãnh đạo thường niên.
APEC có ba ủy ban chính: Ủy ban Đầu tư và Thương mại, Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Quản lý và Ngân sách. Ban Chỉ đạo SOM về Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật (ESC) có trách nhiệm theo dõi chương trình làm việc về Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật.
APEC cũng có các Nhóm Công tác (WG) theo ngành trong các lĩnh vực: năng lượng, hải sản, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ trong công nghiệp, bảo tồn tài nguyên biển, viễn thông, xúc tiến thương mại, giao thông vận tải và du lịch. Những nhóm làm việc này có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác trên thực tế giữa các thành viên để xây dựng năng lực trong lĩnh vực mình phụ trách.
Các Nhóm Đặc trách giải quyết các vấn đề liên quan tới hợp tác kỹ thuật trong nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, môi trường và phát triển bền vững.
Để hỗ trợ cho các hoạt động của APEC, một Ban Thư ký thường trực được thành lập tại Singapore năm 1993. Ban Thư ký có 40 chuyên viên thực hiện nhiệm vụ mang tính hành chính và hỗ trợ điều phối cho tất cả các diễn đàn của APEC. Ban Thư ký cũng quản lý quỹ trung tâm của APEC – quỹ này dùng để hỗ trợ cho các dự án đã được các nhà lãnh đạo và các bộ trưởng thông qua.
Năm 1995, các nhà lãnh đạo APEC đã nhất trí thành lập Hội đồng Tư vấn Doanh nghiệp APEC (ABAC) để có một kênh tư vấn chính thức. Hội đồng này hàng năm đều gặp gỡ các nhà lãnh đạo để thảo luận về các đề xuất và góp ý của Hội đồng.
Quan sát viên:
APEC có ba quan sát viên chính thức gồm:
-
Ban Thư ký của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
-
Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương
-
Ban Thư ký Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương
Những quan sát viên này tham gia vào các cuộc họp của APEC và được tiếp cận đầy đủ các tài liệu và thông tin liên quan đến các cuộc họp. Các nhóm quan sát viên cũng cùng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức nhằm giúp cho APEC thực hiện các sáng kiến và đạt được mục tiêu của mình.
Cơ chế hoạt động:
APEC là một diễn đàn đặc biệt, hoạt động trên nguyên tắc đối thoại mở và tôn trọng quan điểm của tất cả các thành viên. Không có các cam kết ràng buộc; sự tuân thủ đạt được thông qua thảo luận và hỗ trợ lẫn nhau dưới hình thức hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Trong APEC, tất cả các nền kinh tế đều có tiếng nói bình đẳng và các quyết định được đưa ra trên cơ sở đồng thuận.
Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC là diễn đàn có tính chất quyết định cao nhất, nơi hoạch định các chiến lược và tầm nhìn dài hạn cho APEC.
Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức hàng năm trước Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế bao gồm Hội nghị Bộ trưởng Thương mại, các Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành như Tài chính, Hàng không, Bưu chính Viễn thông,… nhằm xem xét và thông qua các chương trình hành động và đệ trình các sáng kiến, kế hoạch mới lên Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế.
Hội nghị các Quan chức cao cấp (SOM) nhằm triển khai các quyết định của Hội nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị, chương trình hợp tác lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét.
Một số thành tựu kinh tế nổi bật của APEC:
- Trong thập kỷ đầu tiên kể từ khi thành lập, các nền kinh tế thành viên APEC đã tạo ra xấp xỉ 70% tăng trưởng kinh tế toàn cầu;
- Rào cản thuế quan trong khu vực APEC đã giảm từ 16,6% năm 1988 xuống còn 5,5% năm 2004;
- Các rào cản phi thuế quan đã được công khai thành thuế quan; các rào cản đầu tư đã được cắt giảm;
- Xuất khẩu tăng 113% lên trên 2,5 nghìn tỷ USD;
- Tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 210% (nếu tính riêng các nền kinh tế đang phát triển trong APEC thì con số này là 475%);
- GNP thực tế tăng thêm khoảng một phần ba (nếu tính riêng các nền kinh tế đang phát triển trong APEC thì con số này là 74%);
- GDP tính theo đầu người ở các nền kinh tế đang phát triển tăng thêm 61%.
APEC đem lại lợi ích cho người dân trong khu vực:
Công dân của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương được hưởng lợi từ các hành động tập thể và hành động riêng lẻ của các nền kinh tế thành viên APEC theo những cách khác nhau. Một số lợi ích trực tiếp như là tăng cơ hội việc làm, có nhiều chương trình đào tạo hơn, hệ thống an ninh xã hội vững chắc hơn, giảm đói nghèo. Việc cắt giảm hàng rào thương mại và tạo ra một khu vực kinh tế mang tính cạnh tranh cao hơn đã làm giảm chi phí hàng hóa và dịch vụ thiết yếu hàng ngày từ thực phẩm, quần áo tới điện thoại di động.
Quan trọng hơn, tăng trưởng kinh tế dẫn tới tiến bộ xã hội; điều này được thể hiện qua:
-
Chỉ số Phát triển Con người của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc(UNDP) ở các nền kinh tế đang phát triển tăng gần 18%;
-
Tỷ lệ dân số đói nghèo trong khu vực Đông Á giảm gần một phần ba (165 triệu người);
-
Tạo ra hơn 195 triệu việc làm mới trong các nền kinh tế thành viên (trong đó 174 triệu việc làm mới thuộc các nền kinh tế đang phát triển).
-
Các chỉ số về y tế, vệ sinh được cải thiện;
-
Ngày càng có nhiều công dân trong khu vực APEC được hưởng giáo dục cấp tiểu học và trung học.
Nguồn:
http://www.apec.org/content/apec/about_apec/achievements_and_benefits.html
http://www.dfait-maeci.gc.ca/canada-apec/organization-en.asp
http://www.dfait-maeci.gc.ca/canada-apec/faq-en.asp
http://www.mof.gov.vn/apec/viet/gt_td.htm
và tài liệu tuyên truyền của Ban Thư ký APEC Việt Nam)
Related news:
- Hội thảo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 3 về An ninh hàng không (25-04-2012)
- Hội nghị Lãnh đạo Kinh tế APEC 14 kết thúc thành công, thông qua Tuyên bố Hà Nội (20-11-2006)
- Nền kinh tế Hoa Kỳ (13-10-2006)
- Nền kinh tế Đài Bắc thuộc Trung Quốc (13-10-2006)
- Nền kinh tế Thái Lan (12-10-2006)
- Nền kinh tế Singapore (12-10-2006)
- Nền kinh tế Liên bang Nga (12-10-2006)
- Nền kinh tế Philippines (12-10-2006)
- Nền kinh tế Peru (12-10-2006)
- Nền kinh tế Papua New Guinea (12-10-2006)
Last modified 19-05-2006