Nền kinh tế New Zealand
Bản đồ New Zealand
A. Vài nét về New Zealand:
-
Vị trí địa lý: Nằm ở Tây Nam Thái Bình Dương gồm hai đảo lớn (Đảo Bắc và Đảo Nam) và rất nhiều các hòn đảo nhỏ.
-
Diện tích: 271.000 km2
-
Dân số: 4.076.140 người (tính đến tháng 7-2006)
-
Ngôn ngữ: Tiếng Anh và tiếng Maori
-
Đơn vị tiền tệ: Đồng dollar New Zealand (NZD)
-
Nhà lãnh đạo Kinh tế hiện nay: Thủ tướng Helen Clark
Thổ dân Maori
Quang cảnh thủ đô Wellington
B. Nền kinh tế New Zealand:
New Zealand là một nền kinh tế hiện đại và phát triển. Mức sống của người New Zealand khá cao với GDP tính theo đầu người khoảng 26.373 USD/năm (năm 2004). Năm 2005, New Zealand xếp hàng thứ 19 về Chỉ số Phát triển Con người của Liên hiệp quốc và hàng thứ 15 về chất lượng cuộc sống (do tạp chí The Economist bình chọn). Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới giai đoạn 1997-1998, nền kinh tế New Zealand phục hồi nhanh và tăng trưởng khá mạnh.
GDP: 108,7 tỷ USD (năm 2004), 101,8 tỷ USD (năm 2005).
Giá trị xuất khẩu: 20,334 tỷ USD (2004), 22,21 tỷ USD (2005)
Giá trị nhập khẩu: 21,716 tỷ USD (2004), 24,57 tỷ USD (2005).
Aukland là thành phố lớn nhất New Zealand
Tăng trưởng GDP: mức tăng GDP bình quân hàng năm của New Zealand hiện nay khoảng 4% (năm tài chính 2004-2005 tăng 4,8%), cao hơn mức tăng trung bình của các nền kinh tế thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Khu vực dịch vụ là khu vực lớn nhất trong nền kinh tế, tạo ra 67,6% GDP; tiếp theo sau là khu vực công nghiệp chế tạo đóng góp 27,8% vào GDP; khu vực nông nghiệp, khai khoáng và hải sản chiếm khoảng 4,7% GDP.
Lạm phát: Việc tăng năng suất lao động, tỷ lệ thất nghiệp thấp, nhiều việc làm mới được tạo ra đã tạo sức ép làm tăng lạm phát. Chi phí đầu vào tăng lên buộc các công ty phải tăng giá sản phẩm song lãi suất biên của các công ty vẫn bị giảm xuống. Hiện nay, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu của Ngân hàng Dự trữ là từ 1%-3%, và dự đoán trong thời gian trung hạn, mức lạm phát này vẫn được duy trì.
Chăn nuôi bò sữa
Thương mại: New Zealand phụ thuộc khá nhiều vào xuất khẩu (chủ yếu là các nông sản). New Zealand xuất khẩu khoảng 20% tổng sản lượng nông nghiệp. Đặc điểm này làm cho nền kinh tế New Zealand dễ bị tác động bởi suy thoái kinh tế toàn cầu và sự sụt giảm giá hàng hóa trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chính gồm nông sản, hải sản và gỗ; các mặt hàng này chiếm khoảng ½ tổng thu nhập từ xuất khẩu của New Zealand. Thị trường xuất khẩu chính của New Zealand hiện nay gồm Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Anh.
Về nhập khẩu, do tiêu dùng và đầu tư tăng mạnh dẫn tới mức tăng mạnh nhập khẩu từ 8,1% năm 2003 lên 15,7% năm 2004, 12,8% năm 2005 và hiện ở mức khoảng 4,1%. Thị trường nhập khẩu chính là Australia, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Đức.
New Zealand bị thâm hụt thương mại do thực trạng nhập khẩu tăng mạnh, xuất khẩu có phần chậm lại và đồng dollar New Zealand tăng giá so với dollar Hoa Kỳ.
Cánh đồng bắp
Cánh đồng lúa mì
Cán cân thanh toán: Thâm hụt tài khoản vãng lai trong thời gian gần đây liên tục tăng và dự đoán có thể đạt đến mức đỉnh điểm là 7% GDP vào cuối năm 2006 đầu 2007 và sau đó có thể giảm dần xuống mức 6% GDP vào giữa năm 2009. Mức tăng này là phần lớn là do thâm hụt cán cân thương mại.
Nợ nước ngoài: Tổng nợ nước ngoài của New Zealand tính đến tháng 12-2004 là 152 tỷ USD, tăng hơn so với 137 tỷ USD ở thời điểm tháng 12-2003.
Chi tiêu ngân sách: Chính sách chi tiêu ngân sách hiện nay của New Zealand là tiến tới thu nhiều hơn chi, đủ để đóng góp vào Quỹ lương và giảm dần nợ.
Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Dự trữ New Zealand là một ngân hàng trung ương độc lập và hoạt động dựa trên Điều luật về Ngân hàng Dự trữ (1989), Ngân hàng có nhiệm vụ duy trì ổn định giá cả trong nước. Điều luật này yêu cầu phải có Thỏa thuận về Mục tiêu Chính sách giữa Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Dự trữ. Thỏa thuận về Mục tiêu Chính sách gần đây nhất được ký vào tháng 9-2002 và Thỏa thuận này quy định Ngân hàng Dự trữ phải duy trì lạm phát trung bình ở mức từ 1% - 3% trong thời kỳ trung hạn. Thỏa thuận này nêu rõ mục tiêu chính là ổn định giá cả và Ngân hàng Dự trữ phải tìm cách để tránh những bất ổn không cần thiết về tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái.
Triển vọng trung hạn: Tăng trưởng GDP trung bình thực tế dự đoán khoảng 3,5% trong giai đoạn từ nay cho tới tháng 3-2008 do tác động của việc giảm giá đồng dollar New Zealand có tác dụng làm tăng xuất khẩu. GDP danh nghĩa dự đoán sẽ tăng ở mức khoảng 5% mỗi năm trong giai đoạn trên.
Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/New_Zealand
http://www.apec.org/content/apec/member_economies/economy_reports.html
(T.Trinh, Phòng Chính trị Kinh tế Đối ngoại, ngày 13-7-2006)
Các tin liên quan:
- Hội thảo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 3 về An ninh hàng không (25-04-2012)
- Hội nghị Lãnh đạo Kinh tế APEC 14 kết thúc thành công, thông qua Tuyên bố Hà Nội (20-11-2006)
- Nền kinh tế Hoa Kỳ (13-10-2006)
- Nền kinh tế Đài Bắc thuộc Trung Quốc (13-10-2006)
- Nền kinh tế Thái Lan (12-10-2006)
- Nền kinh tế Singapore (12-10-2006)
- Nền kinh tế Liên bang Nga (12-10-2006)
- Nền kinh tế Philippines (12-10-2006)
- Nền kinh tế Peru (12-10-2006)
- Nền kinh tế Papua New Guinea (12-10-2006)
Cập nhật 12-10-2006